cá dao

Bài đăng này có thể chứa các liên kết liên kết đến các đối tác của chúng tôi như Chewy, Amazon và các đối tác khác. Mua thông qua những thứ này giúp chúng tôi tiếp tục thực hiện sứ mệnh của AZ Animals là giáo dục về các loài trên thế giới.

Bản tóm tắt

Có khả năng tạo ra điện trường, cá dao thuộc bộ Gymnotiformes. Bộ này hiện có 5 họ và hơn 250 loài riêng biệt, trong đó có một số loài lươn điện. Chúng sống ở các sông suối nước ngọt khắp Trung Mỹ và Nam Mỹ. Mặc dù không có vây bụng và vây lưng nhưng chúng có thể di chuyển khéo léo trong nước nhờ vây hậu môn dài và mềm dẻo.

5 sự thật về cá dao

  • Loài cá dao đầu tiên tiến hóa khoảng 120 triệu năm trước trong kỷ Phấn trắng.
  • Hầu hết có thể tạo ra điện trường yếu để điều hướng, phát hiện con mồi và giao tiếp với nhau.
  • Một số loài cá dao, chẳng hạn như lươn điện trong chi Electrophorus, phóng điện để làm choáng con mồi.
  • Tia vây của chúng có thể cong gần gấp đôi so với tia của bất kỳ loài cá vây tia nào khác, cho phép chúng di chuyển chính xác mà không cần đến vây bụng hoặc vây lưng.
  • Con cái thích con đực có thể tạo ra tín hiệu điện tần số thấp hơn mặc dù thực tế là những tín hiệu này dễ bị kẻ săn mồi phát hiện hơn vì chúng cho thấy con đực thành thạo trong việc trốn tránh sự phát hiện.

Phân loại cá dao và tên khoa học

Tất cả các loài đã biết đều thuộc bộ cá xương ống Gymnotiformes. Tên của mệnh lệnh có thể bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp gymnos, có nghĩa là "tập luyện khỏa thân" và từ iformes trong tiếng Latinh, có nghĩa là "hình thức của". Tổng hợp lại, tên của bộ đề cập đến hình dáng thuôn dài của cá dao và thực tế là chúng không có vây bụng và vây lưng. Do sự phân bố địa lý của chúng, cá dao còn có tên là cá dao Tân nhiệt đới hoặc cá dao Nam Mỹ. Các nhà khoa học công nhận 5 họ, 34 chi và hơn 250 loài riêng biệt trong bộ này. Họ hàng xa của chúng bao gồm một số loài cá da trơn trong bộ Siluriformes và cá piranha và cá tetra trong bộ Characiformes.

Năm họ tạo nên bộ Gymnotiformes bao gồm:

  1. Gymnotidae – cá dao có dải và lươn điện
  2. Rhamphicthyidae – cá dao cát
  3. Hypopomidae – cá dao mũi cùn
  4. Sternopygidae – cá dao thủy tinh và đuôi chuột
  5. Apteronotidae – cá dao ma

Cá Dao Xuất Hiện

cá dao
Cá dao bơi bằng cách gợn sóng vây hậu môn trong khi giữ cho cơ thể chúng cứng nhắc.

©Pavaphon Supanantananont/Shutterstock.com

Hầu hết có cơ thể dài, hẹp và đuôi thon, do đó "dao dao". Trong khi đó, cá chình điện sở hữu thân hình trụ, chỉ thuôn nhọn ở gần cuối. Không giống như các loài cá có xương khác, chúng không có vây bụng và vây lưng, đồng thời có một vây hậu môn cực dài chạy gần hết chiều dài cơ thể. Hình thức này khiến chúng trông giống lươn, mặc dù chúng không có quan hệ họ hàng gần với lươn thật. Hầu hết thiếu răng ở hàm miệng, mặc dù một số có răng giống bàn chải được gọi là lông nhung ở hàm trên và hàm dưới. Mõm cũng khác nhau tùy thuộc vào loài. Ví dụ, cá dao cát và cá dao ma có mõm dài, hình ống, trong khi cá dao thủy tinh và cá dao mũi cùn có mõm tương đối ngắn và phẳng. Chúng có kích thước rất đa dạng từ khoảng 4 inch đến dài gần 8 feet, trung bình khoảng 2 feet.

Chúng bơi bằng cách gợn sóng vây hậu môn trong khi giữ cho cơ thể cứng nhắc. Vây hậu môn của chúng chứa khoảng 150 tia vây riêng lẻ và có thể cong gần gấp đôi so với các loài cá vây tia khác. Chúng có toàn quyền kiểm soát cách vây của chúng uốn cong, cho phép chúng điều chỉnh chính xác hướng chuyển động của mình. Chúng di chuyển bằng cách tạo ra sóng dựa trên các mẫu hình thành bởi vây của chúng. Tùy thuộc vào mẫu, chúng có thể di chuyển tiến hoặc lùi và điều chỉnh góc của chúng lên trên, xuống dưới và sang hai bên.



Phân bố, dân số và môi trường sống của cá dao

Bạn có thể tìm thấy chúng trên khắp Neotropics, bao gồm cả Trung và Nam Mỹ. Chúng sống ở các dòng sông và suối nước ngọt từ miền nam Mexico đến miền bắc Argentina. Mỗi loài có môi trường sống ưa thích riêng khi nói đến độ sâu và tốc độ của nước. Ví dụ, cá dao mũi cùn và cá sọc, cũng như cá chình điện, phổ biến ở các dòng suối nhỏ và vùng đồng bằng ngập nước có nhiều thảm thực vật thủy sinh. Cá dao có dải và lươn điện thậm chí có thể sống sót trong vùng nước âm u với lượng oxy thấp. Trong khi đó, cá dao ma và cá dao thủy tinh xuất hiện nhiều hơn ở những con sông lớn, chảy xiết như Amazon và các nhánh chính của nó. Cá dao ma thường ở độ sâu khoảng 16 feet, trong khi bạn có thể tìm thấy cá dao thủy tinh ở độ sâu lên tới 66 feet.

Động vật ăn thịt và con mồi của cá dao

Trong tự nhiên, cá dao phải chiến đấu với nhiều kẻ săn mồi. Các loài nhỏ hơn là con mồi của cá, bao gồm cá trê, gar và các loài cá dao khác. Các loài lớn hơn có ít kẻ săn mồi dưới nước hơn nhưng vẫn phải cạnh tranh với các loài động vật có vú và chim lớn hơn. Để tránh những kẻ săn mồi, chúng có xu hướng ẩn náu trong những chỗ sâu vào ban ngày và cũng dựa vào các cơ quan điện của chúng để tạo ra các trường giúp chúng phát hiện ra sự hiện diện của những kẻ săn mồi.

Chúng là những kẻ săn mồi về đêm săn mồi nhiều loại sinh vật biển. Con mồi phổ biến bao gồm côn trùng, giun, động vật giáp xác và cá nhỏ. Những con lớn hơn cũng sẽ săn động vật lưỡng cư, chim và động vật có vú nhỏ. Chúng cảm nhận con mồi bằng cách phát hiện các nhiễu loạn trong điện trường xung quanh chúng. Trong khi hầu hết không sử dụng điện làm vũ khí, lươn điện có thể tạo ra đủ điện áp để làm choáng con mồi.

Sinh sản và tuổi thọ của cá dao

Mỗi loài có tập tính sinh sản riêng. Do bản chất xa xôi của chúng, các nhà khoa học biết rất ít về thói quen sinh sản của hầu hết các loài. Cá dao nổi tiếng là khó sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt vì chúng cần nhiều không gian và điều kiện cụ thể. Hầu hết sinh sản trong mùa mưa và có xu hướng định vị trứng của chúng ở những khu vực có nhiều che phủ như gần cây cối hoặc lũa. Chúng cũng có xu hướng sinh sản vào ban đêm, điều này khiến việc quan sát các nghi thức giao phối trở nên khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã có thể nhận ra thói quen của một số loài. Ví dụ, con đực và lươn điện sẽ xây tổ để bảo vệ trứng và con non của chúng, được gọi là cá con. Một con lươn điện cái có thể đẻ tới 1.200 quả trứng, sau đó con đực sẽ thụ tinh với tinh trùng của mình. Mặc dù bản năng làm cha dường như tuyệt vời của chúng, cá dao thường ăn trứng và con non của chính chúng. Nếu sống đến tuổi trưởng thành, chúng có thể sống tới 15 năm trong tự nhiên và gần 20 năm trong điều kiện nuôi nhốt.

Nghiên cứu chỉ ra rằng con cái có xu hướng thích con đực tạo ra tín hiệu tần số thấp. Đồng thời, các tín hiệu tần số thấp dễ bị kẻ săn mồi phát hiện hơn. Hình thức lựa chọn giới tính kỳ quặc này chỉ ra rằng con cái thích con đực vượt trội hơn trong việc tránh những kẻ săn mồi. Những con đực có thể sống đến tuổi trưởng thành về mặt sinh dục đồng thời thể hiện các tín hiệu tần số thấp cho thấy chúng khỏe mạnh về thể chất và do đó, là bạn tình phù hợp. Thể lực của chúng cũng ngụ ý rằng chúng có thể thu thập thức ăn và tài nguyên một cách hiệu quả, do đó cho thấy khả năng sinh sản cao.

Cá dao trong thực phẩm và nấu ăn

Nói chung, chúng không thường xuyên bị con người ăn thịt. Trong khi một số loài được sử dụng làm cá mồi, thì chúng ít có tầm quan trọng về mặt thương mại.

Dân số cá dao

Hầu hết đều ít được nghiên cứu và không nổi tiếng. Nhiều loài sống sâu trong lưu vực sông Amazon và các hệ thống sông Tân nhiệt đới khác, khiến chúng khó tìm và đánh giá. Trong phạm vi bản địa của chúng, chúng khá phổ biến và phong phú và không bị đe dọa quá mức bởi hoạt động đánh bắt thương mại. Một số loài phổ biến trong buôn bán thú cưng, bao gồm cá dao ma đen ( Apteronotus albifrons ), cá dao thủy tinh ( Eigenmannia virescens ) và cá dao sọc ( Gymnotus carapo ). Tuy nhiên, sự phổ biến của chúng như vật nuôi dường như không ảnh hưởng đáng kể đến quần thể hoang dã. Ngày nay, các mối đe dọa lớn nhất đối với chúng đến từ động vật ăn thịt, ô nhiễm và biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu hơn để xác định xem các yếu tố này có ảnh hưởng đến quần thể cá dao hay không.

  • Cá da trơn
  • Lươn điện
  • cá piranha

Xem tất cả 77 con vật bắt đầu bằng chữ K

Cá dao là loài ăn thịt về đêm săn mồi nhiều loại sinh vật bao gồm động vật giáp xác, côn trùng và cá nhỏ.

Bạn có thể tìm thấy cá dao trên khắp Neotropics ở các con sông và suối nhỏ từ miền nam Mexico đến miền bắc Argentina.

Cá dao tạo ra điện bằng cách sử dụng các cơ quan chuyên biệt có nguồn gốc từ các tế bào cơ của chúng, hoặc trong trường hợp cá dao ma từ các tế bào thần kinh cột sống của chúng. Chúng sử dụng những điện trường này để điều hướng, giao tiếp, phát hiện con mồi và – trong trường hợp lươn điện – làm con mồi choáng váng.