cá bay

Bài đăng này có thể chứa các liên kết liên kết đến các đối tác của chúng tôi như Chewy, Amazon và các đối tác khác. Mua thông qua những thứ này giúp chúng tôi tiếp tục thực hiện sứ mệnh của AZ Animals là giáo dục về các loài trên thế giới.

Cá bay, còn được gọi là cá tuyết bay, là một họ cá vây tia, cá biển, phổ biến ở các vùng nước nhiệt đới, ấm áp trên khắp các đại dương trên thế giới.

bay-cá-1

©AZ-Động vật.com

Cá bay có một khả năng đáng chú ý khiến nó khác biệt với bất kỳ loài cá nào khác trên thế giới: vây ngực của nó là những “đôi cánh” được sửa đổi rất nhiều cho phép nó nhảy lên khỏi mặt nước và lướt trên mặt nước tới 650 feet (và có khả năng gấp đôi chiều dài đó với một cơn gió mạnh). Những con cá bay cùng nhau du hành qua các đại dương trong những đàn lớn. Khi gặp kẻ săn mồi, đôi cánh sẽ giúp chúng chạy trốn nhanh chóng. Một số loài cá bay đã được ghi nhận thực hiện 12 chuyến bay liên tiếp. Họ cá này khá phong phú trên khắp thế giới; rất ít loài đang bị đe dọa.

5 sự thật đáng kinh ngạc!

  • Trong khi phần lớn các loài cá này có hai "cánh", thì một số loài có tới bốn cánh. Cả vây bụng và vây ngực của chúng đều có hình cánh.
  • Vì một số lý do không rõ, những con cá này dường như bị thu hút bởi các nguồn sáng. Ngư dân sẽ sử dụng kiến thức này để bắt một số lượng lớn cá bay cùng một lúc.
  • Con cá bơi về phía mặt nước với tốc độ 3 feet mỗi giây. Để bắt đầu bay, chúng đập đuôi nhanh khoảng 70 lần một giây và giữ vây sát vào cơ thể. Khi trồi lên mặt nước, chúng mở rộng đôi cánh và bắt đầu lướt đi.
  • Một số loài cá này di cư hàng trăm dặm quanh năm, tùy thuộc vào sự sẵn có của thức ăn. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu có thể đang làm thay đổi lộ trình di cư thông thường của chúng.
  • Theo hồ sơ hóa thạch, loài cá bay hiện đại đã tiến hóa khoảng 66 triệu năm trước. Nhưng một nhóm cá chuồn riêng biệt, hiện đã tuyệt chủng, có thể đã tiến hóa lần đầu tiên cách đây hơn 200 triệu năm.

Phân loại và tên khoa học

Cá bay trong hành động
Cá Bay là một thành viên của Họ Exocoetidae, có nghĩa là “ngủ bên ngoài”.

©Brent Barnes/Shutterstock.com

Họ cá vây tia, cá chuồn có tên khoa học là Exocoetidae. Đây là sự kết hợp của hai từ tiếng Latinh có nghĩa là “ngủ bên ngoài”. Cái tên này dựa trên một quan niệm sai lầm từ những thủy thủ đầu tiên rằng những con cá này quay trở lại bờ biển vào ban đêm để ngủ. Những loài cá này thuộc bộ Beloniformes, cùng với cá kim và cá cơm.

Giống loài

Họ cá bay bao gồm khoảng 40 loài trải rộng trên 7 chi hoặc hơn. Đây là danh sách chỉ một vài trong số họ. Ngoài ra, hình ảnh của cá chuồn vàng và cá bay Gurnard xuất hiện bên dưới.



  • Cá bay xanh : Còn được gọi là cá bay hai cánh nhiệt đới, loài này được tìm thấy ở hầu hết các vùng biển nhiệt đới của Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Nửa trên cơ thể có màu xanh óng ánh và bụng có màu trắng bạc.
  • Cá bay cánh đen : Loài này cũng được tìm thấy ở hầu hết vùng nhiệt đới Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Nó được phân biệt bởi nửa trên màu xanh đậm, gần như tím, bổ sung cho nửa dưới màu trắng.
  • Cá bay bốn cánh : Đúng như tên gọi, loài này có bốn “cánh” thay vì hai. Quyền thương mại đối với loài cá này đủ quan trọng để gây ra tranh chấp tại một thời điểm giữa các quốc gia vùng Caribe là Barbados và Trinidad và Tobago.

Vẻ bề ngoài

Cá chuồn cánh vàng (Cypselurus poecilopterus) ở Nhật Bản.
Loài cá bay cánh vàng (Cypselurus poecilopterus) ở Nhật Bản này cho thấy bộ cánh thứ hai mà một số loài cá bay có.

©feathercollector/Shutterstock.com

Cá bay trông hơi giống cá mòi (mặc dù không thực sự giống cá tuyết). Nó có thân hình ngư lôi dài, vảy màu xanh lam hoặc bạc và đuôi chẻ đôi theo chiều dọc. Cho đến nay, đặc điểm nổi bật nhất là vây ngực hình cánh gần đầu giúp chúng có thể lướt trong không khí. Một số loài còn có bộ “cánh” thứ hai thực chất chỉ là vây bụng biến đổi. Loài cá cỡ trung bình có thể dài từ 6 đến 20 inch nhưng không bao giờ nặng quá 2 pound.

Phân bố, dân số và môi trường sống

Những con cá này được tìm thấy trên khắp ba đại dương lớn của thế giới (Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương), ở độ sâu khoảng 650 feet. Hầu hết các loài có xu hướng tập trung ở vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới. Chúng rất hiếm ở phía bắc vì nhiệt độ lạnh hơn dường như cản trở chức năng cơ bắp cần thiết để lướt trong không khí.

Cá chuồn rất phổ biến ở vùng Caribe đến nỗi nó thực sự là biểu tượng quốc gia của Barbados. Mặc dù đôi khi nó phổ biến trong ngành đánh bắt cá thương mại, nhưng số lượng quần thể có vẻ khá cao và ổn định. Hầu như tất cả các loài được Sách đỏ IUCN phân loại là ít quan tâm nhất. Rất ít đang bị đe dọa.

Động vật ăn thịt cá bay và con mồi

Cá bay Gurnard bơi dưới đáy biển đầy cát.
Loài cá Flying Gurnard này đang bơi dưới đáy biển đầy cát, nơi nó có thể trở thành con mồi của chim hoặc người.

© Damsea/Shutterstock.com

Cá bay là một phần không thể thiếu trong chuỗi thức ăn ở nhiều môi trường biển nhiệt đới trên khắp thế giới. Chúng lấy chất dinh dưỡng từ con mồi nhỏ hơn và cung cấp chất dinh dưỡng cho những kẻ săn mồi lớn hơn ở xa hơn trong chuỗi thức ăn. Những con cá này là con mồi của cá cờ, cá ngừ, mực, cá heo, chim và con người. Bản thân chúng là loài ăn tạp, vì vậy mặc dù phần lớn chế độ ăn của chúng bao gồm sinh vật phù du, đôi khi chúng cũng ăn động vật giáp xác nhỏ và cá.

Sinh sản và tuổi thọ

Những con cá này sẽ tụ tập hàng triệu con mỗi năm cho mùa sinh sản. Điều này xảy ra gần bề mặt của đại dương mở. Con cái sẽ thả hàng trăm quả trứng xuống nước để con đực thụ tinh (những quả trứng này có thể được con người ăn như trứng cá ăn được). Sau đó, cô ấy sẽ gắn trứng đã thụ tinh của mình thông qua một sợi dính vào một mảnh rong biển hoặc mảnh vụn trôi nổi.

Một trong những loài cá nhanh nhất, cá bay bốn cánh, một trong những loài cá nhanh nhất thế giới
Một con cá bay, phần lớn là tự sinh sau khi sinh, có khả năng bay sau khi đạt chiều dài khoảng 2 inch.

© Daniel Huebner/Shutterstock.com

Sau một vài ngày, những con cá được sinh ra với râu gần miệng để giúp chúng hòa nhập với cây cỏ. Ngay từ khi mới sinh ra, chúng chủ yếu sống một mình và nhiều con cuối cùng sẽ chết vì những kẻ săn mồi. Chúng có khả năng bay sau khi đạt chiều dài khoảng 2 inch. Tuổi thọ trung bình của những con cá này là khoảng năm năm.

câu cá và nấu ăn

Cá bay được coi là một bữa ăn khá dễ ăn. Nó được đánh bắt thương mại trên quy mô lớn trên toàn bộ khu vực Châu Á Thái Bình Dương và một phần của vùng Caribe. Các phương pháp đánh bắt cá phổ biến nhất là lưới rê (lưới thẳng đứng treo trên dây câu) hoặc lưới nhúng (một cái muỗng lớn được giữ cố định bằng một cái vòng).

Cá được chiên, hấp và thậm chí làm sushi. Ở Barbados, chúng được cho là rất hợp với cou-cou, món ăn quốc gia gồm bột ngô và đậu bắp. Trứng cá cũng được coi là một món ngon ở một số quốc gia. Nhiều người cho rằng cá chuồn săn chắc, có vị mặn.

Xem tất cả 90 con vật bắt đầu bằng F

Cá bay được tìm thấy ở vùng nước ấm và đôi khi ôn đới của Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Cá bay ăn sinh vật phù du, động vật giáp xác và cá nhỏ hơn.

Cá bay sống ngoài biển khơi và đôi khi gần các rạn san hô gần bề mặt.

Cá bay là một họ động vật biển có vây hình cánh giúp chúng lướt nhanh trên mặt nước. Hành vi này đặc biệt đến mức không loại cá nào khác có thể tuyên bố là có. Mặt khác, chúng trông và hành xử tương tự như cá thông thường. Chúng khá phong phú và rất ít loài đang bị đe dọa.

Cá bay không thể vỗ cánh như chim để tăng độ cao. Thay vào đó, chúng sử dụng động lượng của mình trong nước để phóng lên không trung và sau đó lướt qua khoảng cách hàng trăm feet.

Khoảng thời gian dài nhất mà một con cá bay từng được ghi nhận trong chuyến bay là khoảng 45 giây. Chúng không thể hít thở không khí nên khả năng lướt đi của chúng nhất thiết bị hạn chế.

Khả năng trượt là một sự thích nghi có lẽ đã tiến hóa để giúp cá thoát khỏi những kẻ săn mồi dưới đại dương. Tuy nhiên, điều này cũng đi kèm với một nhược điểm nhỏ: nó khiến chúng dễ bị chim tấn công hơn.

Cá bay được cho là có thịt chắc, vị mặn. Trứng cũng khá ăn được.