Các loại miệng cá và công dụng của chúng
Miệng cá có nhiều kích cỡ, hình dạng và hướng khác nhau, mỗi cái nói lên rất nhiều điều về những gì và nơi cá ăn, cũng như điều gì đó về hành vi của nó. Cá săn mồi thường có miệng lớn nhất, thường có hàm răng dài và sắc nhọn. Một số loài có miệng có thể mở rộng, cho phép cá kéo dài tầm với hiệu quả để bắt những miếng thức ăn ngon khi bơi. Các loài khác có phần miệng đặc biệt cho phép chúng cào tảo ra khỏi đá và cành cây. Và những loài cá khác có miệng có răng ở phía sau, gần như ở cổ họng. Những chiếc răng hầu này giúp giữ và nuốt con mồi.
Hầu hết các miệng cá thuộc một trong ba loại chung:
- Superior, hay đôi khi được gọi là siêu đầu cuối, miệng hếch lên.
- Miệng cuối hướng thẳng về phía trước và là loại miệng phổ biến nhất.
- Miệng kém hơn, hoặc thiết bị đầu cuối phụ, hướng xuống dưới. Loại miệng dưới thường gặp ở các loài sống ở tầng đáy như họ cá da trơn.
-
miệng cao
Miệng trên hướng lên trên và hàm dưới dài hơn hàm trên. Thông thường, cá có kiểu miệng này ăn ở bề mặt. Chúng nằm chờ con mồi xuất hiện phía trên rồi bất ngờ tấn công từ bên dưới.
Nhiều loài cá có miệng vượt trội chủ yếu ăn côn trùng, tuy nhiên, một số loài có thể ăn những loài cá khác bơi gần bề mặt. Một số loài có miệng cao hơn có hàm dưới thon dài có chức năng giống như một cái muỗng.
Cung thủ, nửa mỏ và cá rìu đều là những ví dụ về các loài cá cảnh có miệng vượt trội.
-
Miệng ga
Miệng đầu cuối nằm ở giữa đầu và hướng về phía trước. Cả hai hàm đều có cùng chiều dài. Nhiều loài cá có kiểu miệng này hơn bất kỳ loại nào khác. Cá có miệng cuối thường là loài ăn giữa nước; tuy nhiên, chúng có thể kiếm ăn ở bất kỳ vị trí nào. Những loài cá này thường là loài ăn tạp, ăn bất cứ thứ gì có sẵn. Chúng thường kiếm ăn khi đang di chuyển, ngoạm lấy những mẩu thức ăn mà chúng đi ngang qua hoặc săn những con cá khác mà chúng đuổi theo.
1. https://thegioiloaica.com/archive/5429/
2. https://thegioiloaica.com/archive/3480/
3. https://thegioiloaica.com/archive/4020/
Điều khá phổ biến là cá có miệng cuối cũng có miệng nhô ra cho phép chúng đẩy hàm về phía trước khi ngoạm thức ăn. Hầu hết các loài cá ăn các loài cá khác đều có miệng cuối, thường có bản lề để cho phép chúng thực hiện hành động vồ và nuốt chửng một con cá khác. Chúng cũng có thể sở hữu những chiếc răng đặc biệt, và trong một số trường hợp có thêm hàm. Lươn Moray là một trong những loài có hàm hầu nằm sâu trong cổ họng.
Hầu hết cá ngạnh, cichlid, gouramis và tetras đều có miệng cuối.
-
miệng thấp
Còn được gọi là miệng dưới hoặc miệng bụng, miệng dưới quay xuống dưới. Hàm dưới ngắn hơn hàm trên và hàm thường nhô ra ngoài. Cá có miệng dưới thường là loài ăn đáy và thường có ngạnh hỗ trợ định vị các mảnh thức ăn.
Hầu hết các thành viên của họ cá da trơn đều có hàm dưới, và nhiều loài trong số chúng cũng có miệng mút. Chế độ ăn của cá có miệng kém bao gồm tảo, động vật không xương sống (chẳng hạn như ốc sên), cũng như mảnh vụn và bất kỳ loại thức ăn nào rơi xuống đáy.
-
miệng lồi
Miệng nhô ra cho phép cá mở rộng tầm với khi cố gắng vồ lấy con mồi hoặc các mảnh thức ăn. Tính năng này có thể được nhìn thấy trong tất cả các loại miệng. Cá có phần cuối miệng nhô ra và có bản lề có thể tạo ra chân không khi chúng mở miệng, do đó hút con mồi vào trong. Nhiều loài cá có thể sử dụng chiếc miệng nhô ra để đuổi theo con mồi, trong khi những loài khác lặng lẽ nằm chờ con mồi đi ngang qua rồi nhanh chóng mở rộng miệng để chộp lấy nạn nhân bất hạnh.
Một số loài sử dụng đặc điểm này để tham gia vào các hoạt động không kiếm ăn. Ví dụ, cá sành ăn hôn nhau sử dụng cái miệng nhô ra để bảo vệ lãnh thổ trước những con khác cùng loài. Mặc dù nó có vẻ như đang hôn người sành ăn khác, nhưng đó là một động thái chiến đấu để cho đối thủ của nó biết ai là người sở hữu không gian đó.
Các loài khác, chẳng hạn như một số thành viên của họ cá da trơn, sử dụng miệng nhô ra để giữ nguyên vị trí bằng cách bám vào đá hoặc vật thể cố định khác.
Tiếp tục đến 5 trên 7 bên dưới.
-
Mút miệng
Miệng mút là một đặc điểm phổ biến ở cá có miệng kém hơn. Cá da trơn, chẳng hạn như loài plecostomus phổ biến (có nghĩa đen là miệng gập lại), sử dụng miệng mút để loại bỏ tảo khỏi lũa hoặc đá. Một số loài sử dụng miệng mút để giữ giúp chúng chống lại dòng nước. Bằng cách tự bám vào đá thông qua miệng mút, nó có thể ở bất cứ nơi nào nó muốn, ngay cả trong dòng chảy mạnh.
Những miệng mút này cũng có thể nhô ra, cho phép cá mở rộng tầm với khi sàng lọc các mảnh thức ăn qua chất nền. Miệng mút cũng có thể được sử dụng khi bảo vệ lãnh thổ hoặc cãi nhau với một con cá khác.
-
Miệng dài
Mõm dài ra rất nhiều là một kiểu thích nghi khác của miệng. Loại miệng này cho phép cá thò vào các kẽ, lỗ nhỏ để tìm thức ăn. Chúng cũng có thể sử dụng cái miệng này để đào xuyên qua chất nền để tiếp cận kho tàng thức ăn bị chôn vùi. Một số loài cá ăn bề mặt cũng có miệng dài cho phép chúng xúc côn trùng và các mảnh thức ăn từ bề mặt.
Các loài nước ngọt có miệng dài bao gồm cá mỏ nhọn, cá gar và cá bút chì. Các loài nước mặn bao gồm cá kim và cá trong họ wrasse.
-
miệng mỏ
Miệng mỏ là một biến thể miệng thú vị, nhưng ít phổ biến hơn; nó còn được gọi là một rostrum. Trong thiết kế này, miệng bao gồm hai mảnh rất cứng được gắn bản lề và kết hợp với nhau theo kiểu cắt kéo. Điều này cho phép chúng nghiền nát vỏ cứng của động vật không xương sống.
Cá nóc, cả loài nước ngọt và nước mặn, và cá vẹt nước mặn sở hữu miệng kiểu mỏ.