Bài đăng này có thể chứa các liên kết liên kết đến các đối tác của chúng tôi như Chewy, Amazon và các đối tác khác. Mua thông qua những thứ này giúp chúng tôi tiếp tục thực hiện sứ mệnh của AZ Animals là giáo dục về các loài trên thế giới.
Toc
Hagfish được nhiều người coi là loài động vật kinh tởm nhất trong đại dương.
Hagfish, còn được gọi là lươn nhớt hoặc lươn nhớt, được đặt tên như vậy vì chúng tiết ra chất nhờn. Tuy nhiên, chúng thực ra không phải là lươn mà là loài cá giống lươn có miệng không hàm, giống như cá mút đá. Chúng rất quan trọng đối với mục đích thương mại và thực phẩm, và môi trường sống của chúng là tất cả các đại dương trên thế giới, với mỗi loài có một phạm vi khác nhau.
5 sự thật đáng kinh ngạc!
- Hagfish là loài động vật duy nhất có hộp sọ nhưng không có cột sống, mặc dù chúng có các đốt sống thô sơ.
- Chúng có thể hấp thụ chất dinh dưỡng qua da.
- Chất nhờn của chúng cho phép chúng thoát khỏi sự bắt giữ khi chúng tự buộc mình vào một nút thắt quá tay.
- Chất nhờn của chúng làm tắc nghẽn mang của những kẻ săn mồi biển, khiến chúng ngạt thở nên chúng sẽ thả hagfish ra.
- Lớp da lỏng lẻo của hagfish cho phép toàn bộ cơ thể linh hoạt, cho phép tự buộc mình thành các nút thắt mà không bị thương.
Phân loại và tên khoa học
© Frank Fennema/Shutterstock.com
Cá hagfish thuộc phân ngành Vertebrata vì mặc dù chúng không có cột sống nhưng chúng có các đốt sống thô sơ. Sau đó, hagfish thuộc siêu lớp Cyclostomata và lớp Myxini; tuy nhiên, chúng đã từng thuộc lớp lịch sử được gọi là Agnatha, dành cho loài cá không hàm (agnathans), cùng với cá mút đá. Tên phân loại và các thành viên đã được điều chỉnh qua nhiều năm khi người ta biết nhiều hơn về các dạng sống khác nhau và đặc điểm của chúng.
Bộ là Myxiniformes . Chỉ có một họ hagfish, Myxinidae , nhưng có sáu chi. Đôi khi, chúng được xếp vào hai họ, họ còn lại là Eptatretidae . Tất cả các loài đều có đặc điểm chung là miệng không hàm và hộp sọ sụn không có cột sống.
Sáu chi là: Myxini , Eptatretus , Paramyxine , Notomyxine , Neomyxine và Nemamyxine .
Có khoảng 70-82 loài, với số lượng thay đổi do liên tục phát hiện ra các loài mới. Loài được nghiên cứu nhiều nhất, có tên khoa học là Myxini glutinosa , là cá mút đá Đại Tây Dương. Ví dụ về các loài khác là Goliath ( Eptatretus goliath ), cá mút đá Thái Bình Dương hoặc California ( Eptatretus stoutii ) và cá mút đá đen ( Eptatretus deani ).
Có một hóa thạch hagfish từ 300 triệu năm trước, và các nhà khoa học cho rằng hagfish không thay đổi nhiều trong suốt thời gian đó.
Vẻ bề ngoài
©Peter Southwood / CC BY-SA 3.0 – Giấy phép
Tất cả các loài hagfish đều có đặc điểm chung là thân thon dài, có màu xám hồng, xanh hoặc tím tùy loài, đôi khi có đốm. Tất cả chúng đều tiết ra một chất nhờn dính, đặc từ 100 tuyến ở cả hai bên cơ thể. Trọng lượng của chúng dao động từ 0,85 đến 1,4 kg (1,8 đến 3,1 lb) với chiều dài 4 cm (1,6 inch) -81,28 cm (32 inch), nhưng thường là 50 cm (19,7 inch)
Có một số đặc điểm độc đáo khác:
- Hagfish là một trong số ít động vật có nhiều trái tim. Chúng sở hữu ba trái tim phụ kiện, không có đại não hoặc tiểu não, một lỗ mũi và một hộp sọ sụn.
- Chúng có một tấm răng kéo ra và thu vào thay cho hàm; 2 hàng răng thô sơ, nhọn song song, nhiều lần bị hấp thu và mọc lại; một cái lưỡi khàn khàn; và một cái miệng hình phễu di chuyển theo chiều ngang.
- Hagfish có một số cặp xúc tu ở nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể phục vụ các chức năng cơ học và cảm giác hóa học.
- Chúng có một đôi mắt nhỏ xuất hiện dưới dạng các đốm sắc tố ở phía sau đầu, phía sau vùng miệng, dưới lớp da mờ và phía trước vùng nhánh mang.
- Điều khác biệt giữa những con cá này với cá chình là không có vây ghép đôi, vì chúng chỉ có vây đuôi (đuôi).
- Bên trong, hệ thống hô hấp của chúng là duy nhất, với sự hiện diện của hệ thống xoang mà qua đó các cơ quan hấp thụ máu từ tĩnh mạch và các mạch máu khác.
- Chúng không có dạ dày nhưng thay vào đó, thức ăn mà chúng tiêu thụ được bao bọc trong một màng thấm.
Hagfish Đại Tây Dương có thể dài tới 95 cm (37,4 in) trong khi Goliath Hagfish, loài lớn nhất, có thể đạt tới 127,5 cm (4 ft, 4 in). Myxine kuoi và Myxine pequeno i dài tới 18 cm (7,1 in), trong khi các loài khác nhỏ tới 4 cm (1,6 in).
Các loài thuộc chi Eptatretus là cá mút đá bảy mang. Cá hagfish Đại Tây Dương và Thái Bình Dương khác nhau ở hai điểm: Cá hagfish Đại Tây Dương có các sợi cơ trên da và tư thế nghỉ ngơi của nó được kéo căng, trong khi cá hagfish Thái Bình Dương cuộn lại.
Hành vi
©Peter Southwood / CC BY-SA 3.0 – Giấy phép
Mặc dù chất đặc, dính mà hagfish tạo ra được gọi là chất nhờn, nhưng thực tế không phải vậy. Thay vào đó, đặc điểm của nó là chất nhầy màu trắng đục, dạng sợi. Loài Myxini glutinosa được đặt tên cho nó, với từ "glutinosa" trong tiếng Latinh có nghĩa là dính hoặc dẻo. Hagfish tiết ra chất nhờn trong khi chúng ăn, trong khi đào hang hoặc khi trốn thoát khỏi những kẻ săn mồi kết hợp với một nút thắt quá tay từ đầu đến đuôi. Chất nhờn thường được sử dụng để thay thế cho lòng trắng trứng.
Vì hagfish sống trên hoặc gần đáy đại dương nên việc đánh bắt gần chúng rất khó khăn. Chúng có thể làm hỏng hoặc tiêu thụ sản phẩm đánh bắt được trong lưới kéo sâu của ngư dân trước khi họ có thể kéo chúng lên mặt nước.
Bài viết liên quan:
Phân bố, dân số và môi trường sống
Dân số của tất cả các loài hagfish vẫn chưa được biết, nhưng những con cá này có mặt ở tất cả các đại dương trên thế giới. Tất cả các loài sống trong nước mặn lạnh, với phạm vi hoặc đại dương của chúng thay đổi tùy theo loài. Môi trường sống của các loài trong chi Eptatretus là Thái Bình Dương, với môi trường sống của loài hagfish ven biển Viễn Đông ( Eptatretus burgeri ) là Tây Bắc Thái Bình Dương. Môi trường sống của họ Myxinidae là tất cả các đại dương trên thế giới và môi trường sống của họ Eptatretidae là ở khắp mọi nơi ngoại trừ Bắc Đại Tây Dương. Chúng đào hang dưới đáy đại dương hoặc vào những con cá đã chết và sắp chết, sống ở vùng nước lạnh, thấp với nhiệt độ 15°C và độ sâu dao động từ 52-5.600 ft (15,85-1.800 m), nhưng thường là 4.000 ft (1.219 m).
Động vật ăn thịt và con mồi
Hagfish là loài ăn xác thối và ký sinh, với chế độ ăn thịt. Chúng thích ăn hoặc ký sinh trên con mồi sống, mặc dù chúng sẽ ăn xác những sinh vật đã chết hoặc sắp chết khi có cơ hội. Chiếc lưỡi rít của chúng kéo con mồi vào miệng.
Hagfish thường ăn giun sống ở tầng đáy và các động vật không xương sống khác, cá voi và cá. Chúng có thể hấp thụ chất dinh dưỡng qua da và tạo ra chất nhờn khi chúng ăn.
©miền công cộng – Giấy phép
Hagfish có ít kẻ săn mồi biển vì chất nhờn của chúng, giúp chúng trốn thoát kẻ săn mồi, cũng như khả năng chui qua các khe hở nhỏ hơn một nửa chiều rộng cơ thể, không chỉ giúp chúng thoát khỏi kẻ săn mồi mà còn để ăn xác thối. Những kẻ săn mồi của chúng chủ yếu là các loài chim và động vật có vú, với con người là mối đe dọa đối với 20% dân số theo IUCN.
Sinh sản và tuổi thọ
Hagfish là một loài dị hình giới tính với tỷ lệ lên đến 100:1 nghiêng về con cái. Một số loài là lưỡng tính. Con cái đẻ từ 1-30 quả trứng cứng dính vào nhau với các đầu giống như Velcro. Thời gian mang thai thường là 11 tháng và không có giai đoạn ấu trùng, không giống như cá mút đá. Không có nhiều thông tin khác về hành vi sinh sản của chúng do khó khăn trong việc nhân giống trong phòng thí nghiệm. Bất chấp điều đó, chúng có thể sống tới 40 năm trong tự nhiên và 17 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
câu cá và nấu ăn
Hagfish có công dụng thương mại quan trọng.
Thứ nhất, chúng được ăn ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Ở Hàn Quốc, chúng thường được lột da trước khi nướng hoặc xào và được coi là một loại thuốc kích thích tình dục của đàn ông. Ở Nhật Bản, hagfish được dùng như một loại thực phẩm thay thế cho đậu phụ, do chất nhớt có thể liên kết một lượng lớn chất lỏng mà không cần hoặc rất ít đun nóng. Những người ham ăn có thể lấy hagfish ở Hoa Kỳ từ những người đánh cá ở California.
Thịt hagfish dai với hương vị nhẹ nhưng khác biệt và dư vị khó chịu. Để chế biến theo kiểu Hàn Quốc, bạn cắt đôi ở giữa, bỏ ruột, ướp sốt thịt nướng Hàn Quốc. Đặt cá sống lên đĩa nóng và nấu chín, cắt bằng kéo và dọn cá đã nấu chín với rau diếp và gochujang (tương ớt đỏ). Đầu thường được để lại trên cá và được cung cấp như một sự vinh dự cho khách. Ngoài ra, cá có thể được ăn sống và phổ biến ở dạng thô.
Da hagfish được sử dụng làm da bền trong một số phụ kiện quần áo bao gồm ví, thắt lưng và giày. Nó thường được gọi là “da lươn”.
Xem tất cả 104 con vật bắt đầu bằng chữ H
Hagfish là một loài cá không hàm, giống lươn.
Hagfish sống ở tất cả các đại dương, với phạm vi môi trường sống của chúng tùy thuộc vào loài.
Nó là một chất thay thế lòng trắng trứng.
Vâng, bạn có thể ăn hagfish, nhưng đó là một hương vị quen thuộc.
Hagfish thuộc Vương quốc Animalia.
Hagfish đẻ trứng.
Sự khác biệt chính giữa rắn biển ô liu và hagfish là rắn biển ô liu là loài bò sát và hagfish là cá. Rắn biển ô liu thở không khí, trong khi hagfish thở nước. Hagfish sống dưới đáy đại dương âm u và không có hàm, trong khi rắn biển ô liu sống giữa các rạn san hô và có hàm.
Sự khác biệt chính giữa cá mút đá và cá mút đá là cá mút đá có miệng thích nghi độc đáo để lấy chất dinh dưỡng từ máu của con mồi trong khi cá mút đá là loài ăn xác thối. Mặc dù bề ngoài hai loài cá này rất giống nhau, nhưng chúng có sự khác biệt về chế độ ăn uống, cơ chế phòng vệ và giải phẫu.
Sự khác biệt lớn nhất giữa cá kình và cá mút đá có thể được tìm thấy ở kích thước và hình thái của chúng. Cá hagfish giống một con lươn nhỏ có kích thước từ 1 đến 32 inch và nặng tới 3,1 pound, còn cá kình là thành viên lớn nhất trong họ cá heo, nặng tới 12.000 pound và dài tới 26 feet.