Bạn đã bao giờ tự hỏi làm thế nào chính xác một con cá có thể bơi, giữ thăng bằng và tiêu thụ thức ăn dưới nước chưa? Kiểm tra xem cá dường như có thể tự đứng vững và phát triển như thế nào trong bầu không khí dưới nước của chúng.
Toc
-
Hầu hết cá bơi bằng chuyển động của cơ thể và chuyển động của vây. Các vây chủ yếu là bộ phận cân bằng, ngoại trừ vây đuôi, hoạt động như một bộ phận đẩy cuối cùng, đẩy cá trong nước.
Khi bơi bình thường, nhịp độ trung bình đến nhanh, hành động được bắt đầu ở phần đầu của cá và sóng truyền xuống cơ thể, kết thúc bằng một cú vẩy đuôi. Vây lưng và vây hậu môn giúp cá không bị lật trong nước; các vây được ghép nối cũng thực hiện các chức năng phanh và quay.
Khi bơi chậm và giữ thăng bằng tĩnh trong nước, vây ngực được sử dụng. Những vây này thường không màu để khi cá còn ở trong nước, chuyển động nhẹ nhàng của chúng không được chú ý. Thật vậy, ở một loài cá như cá xiêm ( Betta splendens ), những vây “ngực” này phải được tìm kiếm rất cẩn thận, tương phản với màu sắc tươi sáng của phần còn lại của vây.
Một số loài cá, đặc biệt là một số loài cichlid và cá gai châu Phi, thường bơi bằng vây ngực hơn là cơ thể, nhưng đây là một thói quen bất thường và không phải là tiêu chuẩn.
-
Cách Cân Cá
3 yếu tố chính kiểm soát sự cân bằng của cá:
- Tai trong – Tai trong của cá chứa (như ở hầu hết tai của động vật có vú) một hệ thống các túi nhạy cảm chứa xương, được gọi là sỏi tai , là cơ quan giữ thăng bằng. Chuyển động của xương trong túi cho não cá biết về hướng và chuyển động của nó.
- Cơ bắp – Bản thân các cơ truyền tải thông điệp về vị trí và chuyển động, và có thể đường bên cũng làm như vậy. Ở một loài cá, có khả năng chỉ những chuyển động tích cực mới mang lại nhận thức về tai trong và cơ bắp. Gần đây, người ta cũng đã phát hiện ra rằng nhiều loài cá được trang bị một loại thiết bị radar, các cơ hoạt động như các máy phát xung điện được phản xạ từ các vật thể xung quanh.
- Mắt – Đôi mắt rất cần thiết ở hầu hết các loài cá, không chỉ để nhận thức thị giác bình thường, mà còn vì cá điều chỉnh cơ thể của nó, nếu có thể, để hai mắt nhận được lượng ánh sáng bằng nhau. Một trong những trường hợp ngoại lệ là Cá hang mù đã tiến hóa trong hang tối và hoàn toàn không có mắt. Nó “nhìn thấy” bằng cảm giác “ra-đa” độc đáo, tương tự như con dơi về nhiều mặt.
Tuy nhiên, hầu hết các loài cá đều sử dụng nguồn sáng như một cảm giác định hướng và định hướng. Đây là phản ứng tương tự khiến côn trùng bay vào ánh sáng. Trong bể cá, hiệu ứng ánh sáng được nhìn thấy nếu nguồn sáng đi vào bể không phải từ trên cao (ví dụ có thể là một trong những ống đèn LED chống nước dưới nước mới). Có thể quan sát thấy cá bơi theo một góc, đôi khi là một cảnh tượng rất kỳ lạ khi chúng bơi theo hướng về phía nguồn sáng như thể đó là bề mặt của bể cá. Việc chiếu sáng nghiêng liên tục được cho là gây rối loạn cho cá, vì vậy nếu bạn sử dụng ánh sáng chìm để tạo “hiệu ứng” thì đừng sử dụng nó thay cho ánh sáng trên cao mà chỉ sử dụng như một phần bổ sung.
-
Tốc độ trao đổi chất và nhu cầu oxy
Tốc độ mà động vật sử dụng hết năng lượng, tạo ra nhiệt và các chất thải và tiêu thụ oxy được gọi là tốc độ trao đổi chất. Sự hiểu biết về các yếu tố làm thay đổi tỷ lệ trao đổi chất có tầm quan trọng hàng đầu đối với người chơi cá cảnh.
Vì cá là loài máu lạnh, về cơ bản chúng khác với động vật có vú ở chỗ tốc độ trao đổi chất của chúng tăng lên khi nhiệt độ tăng và đói nhất khi ấm áp. Con người tiêu thụ rất nhiều năng lượng, được cung cấp bởi thực phẩm và đồ uống, để duy trì nhiệt độ cơ thể ổn định thường cao hơn nhiều so với nhiệt độ của môi trường xung quanh cơ thể.
Mặt khác, một con cá không có cơ chế làm ấm để làm điều này mà chỉ tuân theo một định luật hóa học cơ bản khiến các quá trình trong cơ thể diễn ra nhanh hơn khi nhiệt độ cơ thể càng cao do nhiệt độ của nước bao quanh cơ thể. chính nó. Do đó, một con cá biến thức ăn thành năng lượng với tốc độ cao hơn nhiều trong nước ấm so với nước lạnh.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến tốc độ trao đổi chất là hoạt động. Một con cá đang nghỉ ngơi cần ít năng lượng (thức ăn) hơn một con cá đang hoạt động. Nhiệt độ càng cao, cá càng có xu hướng tràn đầy năng lượng, do đó nhiệt độ cao tác động gấp đôi đến việc gây ra mức tiêu thụ năng lượng cao hơn ở hầu hết các loài – cá sử dụng nhiều năng lượng hơn không chỉ vì nó ấm hơn mà còn vì nó phải bơi nhiều hơn. để bắt và tiêu thụ và tiêu hóa nhiều thức ăn hơn. Tuy nhiên, hành động này có giới hạn trên và có thể được xác định bởi độ hòa tan của oxy thấp hơn trong vùng nước ấm hơn.
Do đó, ở khoảng 80 độ F, cá trung bình đạt mức tiêu thụ oxy tối đa và cảm giác thèm ăn tối đa. Đây cũng là nhiệt độ chính để kích hoạt hoạt động sinh sản ở hầu hết các loài và tạo ra chu kỳ sinh sản nhanh nhất ở các loài sinh sản.
1. https://thegioiloaica.com/archive/4747/
2. https://thegioiloaica.com/archive/5297/
3. https://thegioiloaica.com/archive/4414/
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất là tuổi tác. Cá con đang phát triển tương đối nhanh hơn cá già, và chúng cũng sử dụng hết oxy và thức ăn trên một đơn vị trọng lượng cơ thể nhanh hơn.
Hãy nhớ rằng những người sinh sống nữ sẽ cần nhiều oxy hơn hơn cá non hoặc cá đực. Hãy ghi nhớ điều này khi bạn quản lý bể cá của mình.
-
Thở oxy trong mê cung cá
Cá mê cung, hay Anabantids, là loài xây tổ bong bóng, nhưng ngoài ra, chúng có thể hít thở oxy trực tiếp từ không khí bằng cách sử dụng cơ quan mê cung. Có nguồn gốc từ những vùng nước ấm, tù đọng, chúng có thể hút không khí từ mặt nước và giữ nó trong Cơ quan Mê cung. Trong mê cung có nhiều ngăn nhỏ giống như mê cung của các tấm xương mỏng được gọi là lamellae. Các phiến kính được bao phủ bởi lớp màng cực mỏng, mỏng đến mức oxy có thể đi qua. Máu trong màng hấp thụ oxy và mang nó đi khắp cơ thể.
Thói quen xây tổ bong bóng của chúng là một sự thích nghi bắt nguồn từ không khí thở của chúng. Tổ bong bóng được xây dựng từ sự kết hợp của chất nhầy và không khí, để tạo thành các bong bóng nổi trên bề mặt và trứng của cá được lắng đọng trong tổ.
Con đực bảo vệ trứng và sau này là con non khi chúng nở. Bây giờ đây là vấn đề đối với những người mới bắt đầu lai tạo, hầu hết các loài Cá mê cung tương đối dễ sinh sản, cá cái làm mọi việc, nhưng chúng đẻ, và cá đực nở ra hàng trăm cá con.
Một khi cá con rời ổ, nhu cầu oxy cao đến mức nếu người lai tạo không có bể thông khí tốt, cá con sẽ nhanh chóng bị ngạt thở và chết. Trong tự nhiên, tổ được xây dựng ở những con suối và ao đầm lầy và ngay khi cá con bơi lội tự do, chúng sẽ phân tán ra thiên nhiên rộng lớn, vì vậy chúng không tập trung ở một không gian nhỏ.